Tác giả: NNC Phan Anh Dũng

Trung tâm Tư liệu Phật giáo Việt Nam

Tạp chí Nghiên cứu Phật học - Số tháng 09/2025

Tóm tắt: Bài viết tiếp tục khảo sát về tác phẩm Hồng mông hạnh trong số các tác phẩm chữ Nôm thế kỷ 17-18 mà mộc bản hiện được lưu giữ ở chùa Hòe Nhai Hà Nội.

Từ khóa: Hòe nhai, Hồng Phúc, Chân Nguyên, Hồng mông hạnh, Mộc bản, văn học chữ Nôm, thế kỷ 17.

1. Giới thiệu

Trước đây chúng tôi đã giới thiệu hai tác phẩm văn học chữ Nôm thế kỷ 17-18 nằm trong bộ ván lưu ở chùa Hòe Nhai Hà Nội, tên chữ là Hồng Phúc tự, đó là Lý sự dung thông của Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1715) và Đạt Na thái tử hạnh theo Giáo sư Lê Mạnh Thát là của Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647 - 1726). Ngoài ra ở chùa Hòe nhai hiện còn lưu hai bộ mộc bản tác phẩm chữ Nôm nữa là Hồng mông tạo hóa chư duyên bản hạnh thường được gọi ngắn ngọn là Hồng mông hạnh và Giới thần bản hạnh (chỉ còn 1 ván), bài này chúng tôi xin giới thiệu tiếp về bộ mộc bản Hồng mông hạnh.

Tác phẩm Hồng mông hạnh đã được Giáo sư Lê Mạnh Thát (GS LMT) phiên khảo kỹ lưỡng trong Toàn tập Chân Nguyên Tuệ Đăng - Tập 2, nên trong bài viết này chúng chỉ tập trung khảo về mộc bản, văn bản và hệ thống từ cổ, ngoài ra có sửa phiên âm một số trường hợp cho sát nguyên bản Nôm hơn.

2. Về mộc bản Hồng mông hạnh

Mộc bản Hồng mông hạnh chùa Hòe Nhai hiện còn đầy đủ 7 ván, khắc cả 2 mặt nên tổng cộng có 14 tờ, mỗi tờ 2 trang, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 14 chữ, khổ của khung in 19,5x27 cm . Thống kê cụ thể tình trạng từng ván như sau:

Đáng chú ý là ván khắc tờ 8 có một ô vuông khuyết, đó là dấu vết của một miếng gỗ ghép vào, thường là do phôi ván bị rỗ nên thợ đục bỏ rồi ghép một miếng gỗ vào và bào nhẵn để khắc chữ, tình trạng hiện tại là mẩu gỗ ghép đó bị mất nên chỗ đó thiếu đi vài chữ, xem ảnh ở dưới.

3. Về niên đại ván khắc và văn bản

Về sách in cả ba bộ Hồng mông hạnh, Đạt Na thái tử hạnh và Lý sự dung thông được sư Giác Lâm chùa Hòe Nhai cho in và đóng chung thành một tập, hiện ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm có hai bản in giống hệt nhau ký hiệu AB 322 và AB 374. Lý sự dung thông ngoài bản in của chùa Hòe Nhai nói trên còn có 2 bản in khác, một bản in từ ván lưu ở chùa Bổ Đà, một bản nằm trong bản in Nhất thời lễ tụng nhật dụng hành trì tập yếu chư nghi tàng bản ở chùa Yên Ninh (Trăm Gian) Hải Dương, vì vậy có thể thực hiện đối chiếu dị bản. Còn hai bản Hồng mông hạnh, Đạt Na thái tử hạnh hiện chưa tìm thấy ở sách nào khác ngoài bản của chùa Hòe Nhai nên không thể tiến hành thao tác đối chiếu dị bản.

Ảnh mộc bản Hồng mông hạnh tờ 8 (đã lật cho chữ 
thuận), có một ô khuyết.
Ảnh mộc bản Hồng mông hạnh tờ 8 (đã lật cho chữ thuận), có một ô khuyết.
Ảnh bản rập lại mộc bản Hồng mông hạnh tờ 8 của TTTLPG.
Ảnh bản rập lại mộc bản Hồng mông hạnh tờ 8 của TTTLPG.

Trang cuối Đạt Na thái tử hạnh có dòng ghi rõ “Hoàng triều Minh Mạng thập cửu niên tuế thứ Mậu Tuất” tức có niên đại rõ ràng là năm 1838, còn trang cuối Hồng mông hạnh và Lý sự dung thông chỉ ghi chung chung là Hoàng triều Minh Mạng vạn vạn niên tức nằm trong khoảng 1821- 1840. GS Lê Mạnh Thát dựa vào kiểu chữ khắc và việc được đóng chung với Đạt Na thái tử hạnh nên cho rằng Hồng mông hạnh cũng được khắc không xa năm khắc Đạt Na thái tử hạnh (1838).

Ban đầu chúng tôi tưởng bản in trong sách Toàn tập Chân Nguyên Tuệ Đăng của GS LMT là bản AB 374, nhưng xem  lại thì bản AB 374 lưu ở Viện nghiên cứu Hán Nôm không bị khuyết chữ ở trang 8a, trong khi bản của GS LMT thì có khuyết, như vậy bản trong sách  của GS LMT được in rập muộn về sau, khi mẩu gỗ ghép ở ván in tờ 8 đã bị mất:

Trang 8a bản AB 374, 
không bị khuyết chữ.
Trang 8a bản AB 374, không bị khuyết chữ.
Trang 8a bản trong sách của GS 
LMT, bị khuyết chữ.
Trang 8a bản trong sách của GS LMT, bị khuyết chữ.

4. Về tác giả

GS Lê Mạnh Thát sau khi phân tích so sánh tỉ mỉ nội dung tư tưởng cũng như cách dùng từ và đặt câu với bản Nôm Thiền tông bản hạnh đã xác định là của Chân Nguyên Tuệ Đăng, đi đến kết luận là Hồng mông hạnh cũng là của Chân Nguyên Tuệ Đăng, và đưa vào sách Toàn tập Chân Nguyên Tuệ Đăng. Tuy nhiên chúng tôi thấy vẫn còn nghi vấn vì Chân Nguyên thường đưa tên mìnhvào ngay trong nội dung bản diễn Nôm, như như bản Nam Hải Quan âm bản hạnh ở trang 42b có câu tác giả tự nói về mình : “Hòa thượng Chính Giác hiền kinh”, Chính Giác cũng là một tên hiệu của Chân Nguyên Tuệ Đăng. Các học trò của Chân Nguyên cũng theo cung cách như thế, chẳng hạn bản Xuất gia sa di quốc âm thập giới, ngay câu đầu đã ghi rõ tên tác giả là Như Như tức Tổ Như Trừng Lân Giác: “Như Như vâng giáo Chân Nguyên. Diễn dương luật  tạng lưu truyền lâu xa…”.

Nhưng trong nội dung Đạt Na thái tử hạnh và Hồng mông hạnh thì không thấy thể hiện  tên  tác giả kiểu đó, những đặc điểm dường như liên quan đến Chân Nguyên Tuệ Đăng thì có thể giải thích như sau: khả năng  chúng   vốn đã có một bản “sơ thảo” do các tác giả vô danh nào đó khởi thảo, về sau được Chân Nguyên Tuệ Đăng chỉnh sửa phát triển thành các tác phẩm hoàn chỉnh. Tình trạng “tác giả tập thể” này cũng thấy ở nhiều bản truyện thơ Nôm khuyết danh khác.

Ngoài ra chúng tôi chú ý đến hai câu cuối:

Diễn dương cổ tích hóa sinh

Như sách diệu dụng sử kinh chép làm.

Nếu giả định Như Sách là một tên người thì câu văn vẫn có nghĩa, đó chính là tên người soạn bản Hồng mông hạnh, mà hàng chữ Như là hàng đệ tử của thiền sư Chân Nguyên cũng phù hợp về niên đại, tuy nhiên tên Như Sách có vẻ lạ lùng khó có?

5. Sơ lược về nội dung văn bản:

Hồng mông hạnh có cả thảy 410 câu thơ lục bát và một bài kệ tứ tuyệt chữ Hán.

GS Lê Mạnh Thát phân chia thành 5 đoạn như sau:

  1. Câu 1-38 Chân Nguyên trình bày quá trình hình thành thế giới tự nhiên.
  2.  
  3. Câu 39-188 mô tả sự ra đời của con người và diễn trình tiến hóa của xã hội loài người từ đời sống ăn lông ở lỗ đến một xã hội văn minh mà đỉnh cao là sự xuất hiện của ba đạo Nho, Lão và Phật.
  4.  
  5. Câu 189-270 kể tích cây nêu, trình bày cuộc đấu tranh giữa Phật và quỉ vì quyền lợi của nhân dân, và cuối cùng, Phật - tức nhân dân - đã thắng, thu hồi được đất đai của mình.
  6.  
  7. Câu 271-332 mô tả đời sống nông nghiệp mới với sự xuất hiện của trâu bò, chống lại hạn hán lụt lội, tạo nên một đời sống ấm no.
  8.  
  9. Câu 330-410 ghi lại lời kêu gọi đời sống đạo đức bằng cách trả được bốn ơn nặng và tuân phục theo trật tự phong kiến để khỏi bị luân hồi vào những nơi khổ cực.

GS LMT nhận xét “Với cơ cấu như thế, nội dung của Hồng mông hạnh rõ ràng nhắm tới việc trình bày một thế giới quan Phật giáo Việt Nam. Thế giới quan này tuy chịu một quá trình Phật giáo hóa có ý đồ và chủ mưu, vẫn bộc lộ cái nhìn hết sức tích cực, về lịch sử hình thành và tiến hóa của thế giới tự nhiên và xã hội loài người…”.

Chùa Hòe Nhai - Ảnh: Minh Khang
Chùa Hòe Nhai - Ảnh: Minh Khang

Điểm thú vị đáng lưu ý là chuyện dân gian “cây nêu” của người Việt đã được Chân Nguyên đưa vào sách này, cũng là câu truyện dài nhất (chiếm 92 câu), từ đó GS Lê Mạnh Thát có nhận xét “… cho thấy liên hệ hỗ tương giữa dòng tư tưởng và thế giới quan của bộ phận trí thức phong kiến. Ngoài ra, trong tư cách là một tác phẩm của Chân Nguyên, Hồng mông hạnh cũng phơi bày cho ta thấy quan hệ hỗ tương giữa thế giới quan Phật giáo và thế giới quan dân gian, con đường tiến hành thâm nhập lẫn nhau giữa hai thế giới quan đó, để kết nên một khối thống nhất chi phối đời sống tinh thần và văn hóa của cha ông ta thuở trước…”.

6. Vấn đề từ cổ và phiên âm

Chúng tôi thử lọc ra các từ cổ ở bản Hồng mông hạnh:

Từ đơn: nhẵn (không có gì, sạch nhẵn); khôn (không, khó); phô (bọn); cốc (biết);  nhẫn (đến); hòa (và, cùng); đỗ (đạt, được); no (đủ)…

Từ kép: đòi ngày; vậy hòa; pho loài; một dường; mang mẻ; chơi vần (chơi vầy); cả mọn (lớn nhỏ); đòi nơi ; lọ bề; chữa thế (giúp thế); lù và; lạ song; mách dong; ỷ khôn; khê lê…

Đánh giá chung theo các từ cổ thì bản Nôm ứng với thời của Chân Nguyên Tuệ Đăng (cuối TK17 đầu TK18). Tuy nhiên khi thử so từ cổ với với bản Đạt Na thái tử hạnh cũng được GS LMT xếp là của Chân Nguyên Tuệ Đăng thì chúng tôi thấy có chỗ sai biệt, đó là từ cổ ở bản Đạt Na thái tử hạnh có phần cổ hơn bản Hồng mông hạnh. Như từ cốc (nghĩa là biết) ở Hồng mông hạnh chỉ gặp một lần tỉ lệ 1 trên 410 câu, còn ở Đạt Na thái tử hạnh là 4 trên 934 câu, từ phô (là bọn, bầy) cũng chỉ gặp một lần tỉ lệ 1 trên 410 câu so với 3 trên 934 ở Đạt Na thái tử hạnh,… Ngoài ra ở Đạt Na thái tử hạnh còn gặp nhũng từ cổ hơn lên đến TK 15-16 như bà ngựa, la đá, ca (ở), cong (trong), những từ này hoàn toàn vắng bóng trong Hồng mông hạnh, vì vậy nếu cho Hồng mông hạnh là tác phẩm của Chân Nguyên Tuệ Đăng thì Đạt Na thái tử hạnh ít khả năng là của Chân Nguyên và ngược lại.

Trong bài giới thiệu bộ ván Đạt Na thái tử hạnh đã đăng Tạp chí Nghiên cứu Phật học chúng tôi cũng đã nêu nghi vấn đây không phải tác phẩm của Chân Nguyên, vì cụ Chân Nguyên hay đưa tên mình vào nội dung bản Nôm luôn, cả bản Hồng mông hạnh cũng không thấy Chân Nguyên ghi tên mình vào, nay phân tích từ cổ ở trên cho thấy nghi vấn Chân Nguyên không phải tác giả trực tiếp của hai bản Nôm này là có lý, hơn nữa hai bản Nôm chưa chắc do cùng một người sáng tác.

7. Phần phiên âm:

Dưới đây xin giới thiệu bản  phiên âm của chúng tôi, các từ phiên khác GS Lê Mạnh Thát sẽ được in nghiêng. Các chú thích in đứng là dựa theo GS Lê Mạnh Thát và có lược bớt, còn các câu chú thích riêng của chúng tôi thì in nghiêng:

HỒNG MÔNG TẠO HÓA CHƯ DUYÊN BẢN HẠNH

Trải xem thuở trước hồng mông(2)

Hư vô nhất khí tượng cùng hỗn mang

Tam tài(3) thuở chửa phân trương

Kiếp dường bát ngát đời dường mênh mông

Trời chưa có đất còn không

Người ta quạnh quẽ mịt mùng dưới trên

Tự nhiên một khí nổi lên

Tỳ lư nhất trích(4) bỗng liền hóa ra

Thon thon dường tợ trứng gà

  1. Khí thanh khí trọc hợp hòa âm dương(5)

Tự nhiên chấn động khai trương

Mới có Bàn Cổ, Tam Hoàng túc phân(6) [1b]

Thiên tý, địa sửu, nhân dần(7)

Ba giờ khai tịch(8) linh thần đã an

Thái cực nhất khí chân nguyên(9)

Lưỡng nghi tứ tượng sanh nên muôn loài(10)

Thần cơ tạo hóa chẳng sai

Dựng ra núi cả sông dài bể sâu

Sơn xuyên thành thị đâu đâu

  1. Phật tổ biến hóa phép màu ghê thay

Trời thiếu một góc bên tây(11)

Đất thì đã hiện bấy chầy mười phương

Nữ Oa(12) phép Phật oai cường

Đội đá lên đổ đất vuông trời tròn(13)

Tạo thiên lập địa đã ôn

Nhật nguyệt chưa có hãy còn nhẵn thay

Nhân vật cầm thú bấy chầy

Mở mắt làm ngày, nhắp(14) mắt làm đêm [2a]

Chửa có nhật nguyệt khôn xem

  1. Bấy giờ Phật tổ hóa nên lạ lùng

Đại ngộ chân trí Phật dùng(15)

Lấy kim đúc nhật(16) sáng thông đòi ngày

Ngân thì đúc nguyệt(17) bằng nay

Cùng tinh tú rày đêm thì sáng xông

Đặt có xuân hạ thu đông

Có năm có tháng ngày cùng giờ nay

Can chi lục giáp cho hay

Có đêm có ngày Phật tổ đã phân

Cùng thì một khí tinh thần

  1. Người cùng trời đất có căn có hình

Trời cao khí có anh linh

Hai mươi bốn khí tượng tinh càn hào

Đất dày khí rộng mười bao

Hai mươi bốn hướng tượng hào khôn cung [2b]

Người là nhân đạo tại trung

Hai mươi bốn tiết tam đồng nhất nguyên(18)

Nhân vật cầm thú sanh nên

Cùng có tính Phật khí thiên hội đồng

Thiên cao địa hạ nhân trung

  1. Phật thì ở chốn ngoài không thiên đình

Vận tuần Bụt lại giáng sinh

Trụ A sô Phật hiện hình người ta(19)

Hợp cùng tánh mẹ tánh cha

Phụ tinh, mẫu huyết giao hòa mới nên

Cùng thì một tính thiên nhiên

Âm dương luyện khí hư huyền hóa ra

Nhân vật cầm thú quỉ ma

Ở ăn làm một vậy hòa vui thay

Ăn lông nằm lỗ ở cây

  1. Mùa đông bẻ lá kết may che mình [3a]

Hợp đoàn nhân vật quỉ tinh

Bắt nhau ăn thịt sát sinh bỏ thừa

Phô(20) loài cầm thú bấy giờ

Sinh ra nanh vuốt thi cơ mấy kỳ

Nằm thời ngủ ngáy phì phì

Dậy thì ông ống hầm hì tranh phong(21)

Chưa biết giá thú vợ chồng

Khác chi cầm thú hỗn đồng biết ai

Chưa có quân thần quản cai

  1. Quỉ ma nó bắt nào ai bênh vì

Phật tổ quảng đại từ bi

Thương thiên hạ thì hóa phép thần thông

Hóa nên đền các lầu rồng

Phật mới đúc thập nhị chung đạc đào(22)

Huyền chung cổ khánh(23) vui sao

Cùng Hàm trì nhạc(24) thấp cao mọi vì [3b]

Phật ngự thuyết pháp từ bi

Quỉ ma đại chúng qui y khâm thừa

Chẳng còn hỗn tạp như xưa

  1. Vâng lời Phật dạy bấy giờ mới xong

Chưa có lúa thóc tằm bông

Bắt nhau ăn thịt tranh hùng khốn thay

Rập lá làm áo che rày

Phật tổ xem thấy thương thay cơ hàn

Hóa ra lúa bông chan chan

Cho chuột đem tán(25) thế gian xa gần

Chẳng ngờ cá kình bất nhân

Đón ăn cướp mất xa gần còn không

Lý ngư can gián có lòng

  1. Cá kình phàm tục bạo hung bấy chầy

Cá chép hóa rồng khi nay

Có lòng nhân đức Phật rày hóa cho [4a]

Cá kình độc dữ phàm phu

Moi ruột làm mõ đánh hò trả dân

Chuột đem lúa bông xa gần

Cho dân cày cấy dưỡng thân no lòng

Bông thời may áo ấm phong

Cho nên cái chuột kể công ăn càn

Lúa thời nó cắn đã tan

  1. Bấy giờ thiên hạ thế gian lo lường

Tìm sang bạch Phật Tây phương

Rằng thì: “Chuột nó làm hoang cực nhiều”

Phật phán: “Tây phương có mèo

Đem về nó bắt nó trèo mọi nơi”

Bấy giờ chuột hãi rụng rời

Đào hang hòa ẩn trọn đời mới yên

Con mèo xưa đã có duyên

Đã ở cùng Phật Tây Thiên tốt lành [4b]

Cho nên mao phát(26) tĩnh thanh

  1. Thánh dựng làm bút sử kinh chép rày

Thiên hạ văn vũ liền tay

Cất bút thì ngậm(27) viết nay học hành

Mã Minh bồ tát hóa sinh

Nuôi tằm làm kén độ dân bấy chầy

Dựng làm lụa lãnh tốt thay

Bấy giờ thiên hạ đông tây an lòng

Phật hóa lúa thóc tằm bông

Làm ăn no ấm vợ chồng đến nay

Toại Hoàng(28) dựng ra bấy chầy

  1. Cùng ông bồ tát hóa nay ra đời

Dùi cây lấy lửa hòa soi

Dạy dân nấu nướng mọi mùi ăn nay

Dân có tật bệnh khốn thay

Viêm Đế(29) bồ tát bấy chầy dựng ra [5a]

Thuốc thang cứu thế gần xa

Tiêu tan tật bệnh dân hòa khỏe thay

Chẳng còn ở lỗ ở cây

Chẳng còn bẻ lá kết may nữa nào

Chẳng còn theo thói Hữu Sào(30)

  1. Ăn lông uống máu xôn xao vô đồ

Phật lại phân ra chín khu(31)

Đặt có chúa tụ(32) giữ cho một dường

Trên trời Đế Thích(33), Ngọc Hoàng

Dương gian âm giới phép thường thông tri

Đã an ba cõi mọi vì

Chưa ai dạy dỗ lễ nghi học hành

Chưa ai trừ quỉ cấm tinh

Chưa ai cứu độ tử sinh luân hồi

Tánh dường bọt nổi bèo trôi

  1. Ai hay cốc được nên ngôi thánh thần [5b]

Phật dựng tam giáo độ nhân

Một cây bảo thọ linh thần ba chi(34)

Vốn nguyên đạo Phật từ bi

Suất đà thiên thượng(35) phân chi phát hành

Tịnh Quang bồ tát giáng sinh

Thác thân nước Lỗ dạy dân bấy chầy

Mồng bốn tháng năm bằng nay

Ngọ thì nửa ngày Khổng Tử giáng sinh

Năm rồng phun nước vây quanh

  1. Phong lôi vũ bạo hiện hình hóa ra

Giáo Nho kinh sử gần xa

Chư bang thông hết vậy hòa đã yên

Từ Vệ phản Lỗ hoàn nguyên(36)

Tháng tư mười một sinh thiên lên trời

Ca Diếp bồ tát ra đời

Ở trong lòng mẹ đã ngoài tám mươi [6a]

Diệu Ngọc mang mẻ bào thai

Kể tám mười mốt năm dài lâu thay

Ngày rằm tháng hai bằng nay

  1. Thái thượng mở nách mẹ rày hóa sinh(37)

Tóc đầu mày bạc phân minh

Thái thượng hóa hình Đạo giáo thần thông

Bàn tay có chữ cửu long(38)

Bàn chân có chữ tứ tung ngũ hoành(39)

Lại có chữ quỉ buộc quanh

Đến đâu oai khí thần linh dậy dường

Môn đồ phép tắc oai cường

Trấn ngự thế giới bốn phương giữ giàng

Trừ tà diệt quỉ chư bang

  1. Bất sinh bất diệt trợ thường vạn dân

Hộ Minh bồ tát hóa thân

Ra đời độ thế nhiều phần đã dư [6b]

Giáng sinh mồng tám tháng tư

Chín rồng phun nước gió mưa đùng đùng

Thích ca mười kiếp thành công

Cứu sinh độ tử lịch công nhà thiền

Ngày rằm tháng hai sinh thiên

Tịch diệt biến hóa hoàn nguyên bảo tòa

Ba đạo cây cội một nhà

  1. Chi chi diệp diệp Hằng hà vô biên

Những người thiển học thất truyền

Ngỡ là Nho giáo, Phật, Tiên khác dòng

Xem từ xưa phán hồng mông

Biết hay tạo hóa quan thông thượng thừa

Nho giáo đạo Thích bây giờ

Lập làm tự miếu phụng thờ linh tri

Thiên hạ kỳ đảo lễ nghi

Phật tiên thần thánh chứng thì hộ dân [7a]

Nay đoạn chúng ma quỉ thần

  1. Qui y Phật đạo được phần doanh tây(40)

Phật ban phần đất cho rày

Gọi là sách đạo đời nay học đòi

Thông thơ, Vạn bảo(41) xem coi

Ấy là sách đạo Phật trời quỉ ma

Bấy giờ an ổn cửa nhà

Quân thần tá sứ gần xa chầu về

Phật tổ mở tiệc hội lề(42)

Quỉ vương nó lại đến thì công dương(43)

Quỉ ở cùng Phật một đường

  1. Quỉ cũng có phép oai cường ghê thay

Hung hăng xáo xác trêu thầy

Phật dựng làm hội quỉ rày đến chơi

Rủ nhau quỉ liền trêu ngươi

Đem đồ công đức tanh hôi chơi vần(44) [7b]

Phật hóa ra ngũ vị tân(45)

Lại đem cho quỉ uống ăn bấy chầy

Giống ấy hãy còn nhẫn nay

Khuyên bảo các thầy sãi vãi cùng kiêng

Phật phải liệu lường phân doanh

  1. Lừa quỉ ra biển cho an cõi này

Quỉ có phần đất bấy chầy

Ai qua nó bắt khốn thay những là

Bắt về ăn thịt chẳng tha

Nhân vật cầm thú khôn qua đó rày

Phật tổ xem thấy thương thay

Dụ quỉ mua đất giúp rày dân ta

Bấy giờ đức Phật Thích ca

Lại dựng làm hội dụ hòa quỉ vương

Chúng quỉ nó đến công dương

  1. Phật mới phán hỏi quỉ vương lời này: [8a]

“Tớ(46) hỏi mua đất bằng nay(47)”

Quỉ vương bạch Phật: “Mua tày bao nhiêu?”

Phật rằng: “Mua ít chẳng nhiều(48)

Mua có một lèo bằng bức cà sa”

Bấy giờ đức Phật Thích ca

Tức thì liền giũ cà sa ra rày

Chúng quỉ xem thấy mừng thay

Vừa bằng một chiếu vỗ tay reo cười

Chúng quỉ cả mọn đòi nơi

  1. Phật cho ăn uống vui cười xem sao

Kim ngân Phật trả giá cao

Quỉ hành văn tự ký vào đã yên

Tánh danh quỉ vương ở trên

Nguyên có phần đất ở bên sa bà

Kim tương mãi dữ Thích ca(49)

Y như khế nội lập hòa chẳng sai(50) [8b]

Đông thì đến tự Lan đài

Nam thì đến cõi ở ngoài

Bộ châu Tây thời đến Na ni cù

  1. Bắc đến châu Việt thất khu thành biền(51)

Tứ duy thượng hạ bốn bên

Y như khế nội lập nên tức thì

Kim ngân Phật trả khê lê

Bấy giờ văn tự quỉ liền trao cho

Phật liền chiếu đọc chúc thư

Mở cà sa bức rộng dư vô cùng

Quỉ bạt ra ở biển đông

Ở trên non nước mênh mông bấy giờ

Tham ăn ái vật chẳng ngờ

  1. Đều cùng dại cả lọ bề tâu ai

Chúng ta đã bán cho người

Phật cứ bằng lời văn tự giao ngôn [9a]

Bây giờ mất đất ỷ khôn(52)

Ta vào bạch Bụt Thế Tôn ân cần:

“Tôi xin một năm một lần

Về viếng quê cũ đầu xuân ba ngày”

Phật phán nhủ quỉ rằng:

“Bay Tớ cho ba ngày đoạn lại hồi qui

Hễ đâu nêu cắm chớ hề(53)

  1. Thằng nào xông xáo diệt thì tan thây”

Phật sai đương nhiệm giữ rày

Đầu xuân thiên hạ xem nay cúng dường

Ấy tích nêu cắm một dường

Bảy ngày sẽ ngả(54) phép thường thiêng thay

Cùng ấn Bát nhã(55) hai tay

Vẽ trấn ngoài cửa phép rày thần thông

Tề Thiên Đại Thánh trông mong

Ngự Thủy Liêm động kẻo xông xáo vào[9b]

Công ông Đại Thánh kể bao

  1. Hộ thầy chữa(56) thế ai nào chẳng ơn

Thuở xưa có đất ruộng nương

Cỏ cây rậm rạp một dường khốn(57) thay

Trâu bò chưa có bừa cày

Ăn những hoa quả đòi ngày dưỡng thân

Phật tổ cứu độ vạn dân

Phán bảo đệ tử tu nhân hữu tình

Đông phương trâu bò hóa sinh

Đạo tràng ai chịu xuất hành ra đi

Dụ lấy trâu bò đem về

  1. Cho dân làm ruộng khắp thì gần xa

Mãn thế trâu tuổi tác già

Sừng làm lù và(58) da bưng(59) trống nay

Đánh trống thổi lệnh lên rày

Phật thiên thần thánh giáng nay hộ trì [10a]

Công trâu(60) đức trọng kiêm tri

Thành bồ tát đạo từ bi vô cùng

Tái sinh làm vua Thần Nông

Nhân thân ngưu thủ vì công độ người(61)

Cho nên cổ thánh tiền đời

  1. Dạy dân mọi việc thửa nơi xa gần

Từ ấy chẳng còn khó khăn

Lúa thóc đẳng vật dưỡng thân no lòng

Cho nên lên đồng xuống đồng

Vạn dân kỉnh tế Thần Nông thuận hòa

Đế Nghiêu trị vì quốc gia

Sinh con bất tiếu(62) trời hòa chẳng tây

Mười mặt trời mọc khốn thay

Giết hết lúa má người rày ở hang

Ngày nắng như đốt như rang

  1. Đêm mới mát mẻ ra đường kiếm ăn [10b]

Phật tổ xem thấy thương dân

Cho Hậu Nghệ phép linh thần lạ song(63)

Bắn chín mặt trời tan không

Còn để một mặt sáng thông đòi ngày

Người ta mới dám ra rày(64)

Làm ăn mát mẻ liền nay ở làng

Chẳng còn ở lỗ ở hang

Hễ là nắng nhạt(65) thế gian về nhà

Vua Thuấn đương trị quốc gia

  1. Chưa ai lên rước dân hòa chửa an

Thị thời hồng thủy thao thiên(66)

Cầu hiền trị nước cho bền dân an

Triều đình văn vũ bá quan

Lên rước vua Thuấn trên ngàn Lịch sơn(67)

Cày voi vãi thóc chan chan

Vua về trị nước cho an thái bình [11a]

Nhà no người đủ hiển vinh

Ấy Phật xuất thế giáng sinh trị đời

Đêm mưa ngày nắng mọi nơi

  1. Sông đôi dòng nước ngược xuôi thuận hòa

Vạn dân xướng thái bình ca

Vũ, Thang, Văn, Vũ kế hòa trị dân

Phật tổ hóa hiện vân vân

Tạo thiên lập địa sinh nhân bấy chầy

Ăn trái nhớ kẻ trồng cây

Phật hóa đẳng vật ta rày dưỡng thân

Hễ là của mới thường tân(68)

Kỉnh tin cúng trước mới nên thân người

Cho nên cổ thánh tiền đời

  1. Lập làm chùa tượng mọi nơi cúng dường

Ngày rằm mồng một mọi làng

Thường cúng kỳ đảo đèn hương đời đời [11b]

Phàm tục ăn dông ở dài

Chẳng biết trời Bụt vô loài người ta

Quân trị sư giáo mẹ cha(69)

Tứ ân nghĩa trọng sinh ra ở đời

Xem cho biết Bụt biết trời

Vãng phục luân hồi mới đỗ nhân thân(70)

Ai ai tu lấy cho cần

  1. Kẻo phải đọa lạc mất thân oan thù

Thế gian ai hòa chăng(71) tu

Đệ nhất thế phát ở chùa cố kiên

Tại gia trừ độc ở hiền

Tu nhân tích đức làm duyên cho nhiều

Hiếu trung hòa thuận mọi điều

Kính thượng niệm hạ thương yêu tôi đòi

Lòng tin kính đạo Bụt trời

Sinh tử luân hồi lại đỗ nhân thân [12a]

Bụt trời định vị suy ân

  1. Tu hành đức cả lên thiên nhân rày

Thiên cung một đêm một ngày

Dương gian bát bách niên tày đã phân(72)

Trời là thượng đế thiên ân

Ai ai là chẳng nên thân bởi trời

Đế Thích Ngọc Hoàng chánh ngôi

Ba mươi ba trời(73) diễn giáo chân kinh

Phật hư không thượng thiên đình

Không tức thị sắc, sắc thành thị không

Kinh rằng nhân Phật dữ đồng(74)

  1. Thiên(75) sinh anh hùng nhân lại thành thiên(76)

Dầu ai biết được sự duyên

Tối thượng thừa thiền phép đại tiên ông(77)

Chớ còn lạc đạo mách dong(78)

Hủy báng Phật pháp bạo hung vô đồ [12b]

Gian tham độc dữ chẳng tu

Thác hoàn trả nợ cho no mọi nhà

Sinh làm nô tỳ lợn gà

Trâu bò voi ngựa thác hòa chẳng sai

Giết nhau ăn thịt dông dài

  1. Tổ tiên cha mẹ nào ai biết gì

Oan gia quả báo liền chi(79)

Phật phải thuyết pháp từ bi bấy chầy

Lập làm giới luật cho hay

Ai hòa tu nhẫn thời rày hóa sinh

Những người mê đạo bất minh

Hủy báng Phật pháp ngục hình chẳng tha

Thiên phụ địa mẫu sinh ra(80)

Báo công đức ấy vậy hòa mới nên

Thuở xưa cổ thánh tiền hiền

  1. Lấy đất làm tượng Phật thiên phụng thờ [13a]

Đồng mộc vốn nguyên đất xưa(81)

Cổ thánh tác lập phụng thờ mọi nơi

Phật là tâm địa tài bồi

Hóa sinh lại dưỡng mọi loài vật nhân

Những người báng Phật vong ân

Tội ấy nặng nợ ngàn cân đá chìm

Hóa ra muông cỏ vượn chim

Chẳng cho ở đất khôn tìm thấy ai

Nhân vì chẳng biết Bụt trời

  1. Cho nên đọa lạc luân hồi mất thân

Dầu ai biết được thâm ân

Báo ân Phật tổ thời thân mới tuyền

Sinh tử sự đại hoàn nguyên

Thiên đường địa ngục nhãn tiền chẳng xa

Giải khuyên thế sự ta bà

Cho biết đạo chánh để hòa tu thân [13b]

Minh thời thoát hóa đằng vân

Mê sa địa ngục phi trần(82) khôn mong

Kinh này đạo pháp chánh công

  1. Xem hòa nhẫn nhục biết thông xa gần

Phật tổ hóa độ vật nhân

Tạo thiên lập địa đã phân an bày

Hương đăng phụng sự đời đời

Nho giáo, đạo Thích Như Lai di(83) truyền

Còn trời còn Bụt còn tiên

Còn non còn nước mọi duyên mọi còn

Thiên địa nhật nguyệt chẳng mòn

Nhân nhân kế vãng thời còn đạo minh

Diễn dương cổ tích hóa sinh(84)

  1. Như sách diệu dụng sử kinh chép làm.(85)

Kệ vân: [14a]

Động tĩnh thâm tàng thủy triệu sơ

Huyền hoàng khôi tạo vận thần cơ

Chân không chân sắc chân cao hậu

Thiên địa nhân tùng nhất thái hư.(86)

Mộc bản Hồng mông hạnh tờ cuối (số 14) đã lật ảnh cho chữ thuận.
Có dòng ghi niên đại Hoàng triều Minh Mạng vạn vạn niên, bản lưu ở chùa 
Hồng Phúc, phường Hòe Nhai, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức
Mộc bản Hồng mông hạnh tờ cuối (số 14) đã lật ảnh cho chữ thuận. Có dòng ghi niên đại Hoàng triều Minh Mạng vạn vạn niên, bản lưu ở chùa Hồng Phúc, phường Hòe Nhai, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức

Tác giả: NNC Phan Anh Dũng - Trung tâm Tư liệu Phật giáo Việt Nam

Tạp chí Nghiên cứu Phật học - Số tháng 09/2025.

***

Chú thích:

(1) GS LMT ghi con số khác là 15x25 cm có lẽ là đo trên bản photocopy, không phải sách thực. Kích thước ván bề cao khoảng 20cm gần sát bề cao khung in, còn bề rộng thì dôi dư ra nhiều, thay đổi khác nhau trong khoảng 33-37cm.

(2) Hồng mông: to lớn mờ mịt.

(3) Tam tài: trời, đất và người.

(4) Tỳ-lư nhất trích: một giọt tỳ-lư, tức một giọt mặt trời, vì tỳ-lư là phiên âm chữ Vairocana, thường dịch là mặt trời.

(5) Trong Thiên văn huấn của Hoài nam tử nói: Đạo bắt đầu trong chỗ mịt mùng, mịt mùng sinh ra vũ trụ, vũ trụ sinh ra một khí tức một luồng hơi. Luồng hơi trong nhẹ thì bàng bạc thành trời, luồng đục nặng thì ngưng tụ lại thành đất.

(6) Bàn Cổ: theo truyền thuyết xưa, là người đầu tiên của thế giới. Tam Hoàng: ba vị vua đầu tiên, là Thiên hoàng (vua trời), Địa hoàng (vua đất), và Nhân hoàng (vua người). Ý cả câu nói bấy giờ mới có đầy đủ Bàn Cổ và ba vị vua đầu tiên.

(7) Theo vũ trụ quan của Thiệu Ung thì sự hình thành và hoại diệt của thế giới là 1 nguyên chia ra 12 hội, hội đầu là hội tý trời sinh ra, đến hội sửu đất sinh ra, hội dần người sinh ra.

(8) Ba giờ khai tịch: ba giờ mở mang trời đất.

(9) Một luồng hơi của nguồn gốc đích thực ban đầu.

(10) Lưỡng nghi: do biến hóa bên trong sinh ra lưỡng nghi là âm và dương. Tứ tượng: hai luồng âm dương sinh ra bốn hiện tượng là kim, mộc, thủy, hỏa.

(11) Hoài nam tử nói: thời thượng cổ bầu trời ở hướng tây bắc, bốn góc bị sụt xuống, Nữ Oa phải luyện đá năm màu để vá trời và chặt chân con ngao để dựng 4 góc.

(12) Nữ Oa: Nhân vật thần thoại có khả năng đội đá vá trời.

(13) Đất vuông trời tròn: là quan điểm của Hoài nam tử trong thiên Tinh thần huấn.

(14) LMT: bịt. Nguyên bản khắc nhìn giống chữ bát nên LMT đọc ra bịt, nhưng có thể đó vốn là chữ nhập   đọc ra nhắp hay nhấp. Hai chữ đó các sách in của VN thường khắc rất giống nhau khó phân biệt.

(15) Trí tuệ chân thật hoàn toàn giác ngộ do Phật ứng dụng.

(16) Lấy vàng đúc làm mặt trời.

(17) Lấy bạc đúc làm mặt trăng.

(18) Quẻ càn tượng trưng cho trời, mỗi năm chia 24 khí làm cơ sở cho 24 hướng của quẻ khôn, tượng trưng cho đất và 24 tiết của con người, thường có tên lập xuân, vũ thủy, kinh trập, xuân phân, thanh minh, cốc vũ… của mùa xuân; lập hạ... của mùa hè...

(19) A-sô Phật: tên vị Phật, phiên âm chữ Phạn Akobhya, là không lay động. 4 câu 50-4 nói Phật ở ngoài vũ trụ, rồi đến lúc xuất hiện con người.

(20) Phô: nghĩa là bọn, lũ. GS LMT phiên pho là một âm cũng khả dĩ, chúng tôi phiên phô theo Từ điển chữ Nôm dẫn giải của Nguyễn Quang Hồng.

(21) Ông ống: om sòm; tranh phong: giành giật.

(22) Đào: là loại trống nhỏ.

(23) Huyền chung cổ khánh: treo chuông đánh khánh.

(24) Hàm trì nhạc: nhạc Hàm trì, tương truyền là do Hoàng đế tạo ra.

(25) Tán: vãi tung ra.

(26) Mao phát: lông tóc.

(27) Cất bút thì ngậm: trước khi viết, người ta thường thấm đầu bút trong miệng cho ướt rồi mới chấm mực.

(28) Toại Hoàng: vị vua đầu tiên tìm ra lửa.

(29) Viêm đế: vua Viêm, tức Thần Nông, tương truyền rằng đã tìm ra thuốc chữa bệnh cho mọi người. Nay còn cuốn dược liệu xưa nhất gọi là Thần Nông bản thảo.

(30) Hữu Sào: họ Hữu Sào, tức bộ tộc những người làm tổ trên cây mà sống, mà Bản kinh huấn của Hoài nam tử gọi là thời kỳ của họ Dung thành.

(31) Chín khu: tức chín châu; theo Đạo hình huấn của Hoài nam tử nói: giữa khoảng trời đất thì có 9 châu 8 hướng. 9 châu là Thần, Thứ, Nhung, Yếm, Ký, Thế, Bộ, Dương, Thai.

(32) Chúa tụ: chúa tể và lãnh tụ.

(33) Đế Thích: phiên âm chữ Phạn Sakrendra.

(34) Một cây báu chia làm 3 nhánh thiêng liêng tức đạo Phật, Nho và Lão.

(35) Suất-đà thiên thượng: trên trời Suất-đà. Suất-đà, nói cho đủ là Đâu-suất-đà, phiên âm chữ Phạn là Tusita.

(36) Ý nói sau khi Khổng Tử đã từ nước Vệ về nước Lỗ, nơi nguyên quán Khổng Tử để dạy học rồi chết.

(37) Từ câu 155-60 ghi lại truyền thuyết về việc mẹ Lão Tử mang thai 81 năm, đi chơi đến dưới gốc cây lý, vỡ nách trái mà sinh ra Lão Tử, như Huyền diệu nội thiên đã chép và Sử ký chính nghĩa đã dẫn.

(38) Cửu long: theo truyền thuyết, Lão Tử ra đời, chỉ tay của bàn tay có chữ cửu long, tức chín rồng.

(39) Dưới bàn chân có những chỉ kết thành chữ bốn dọc năm ngang.

(40) Được phần doanh tây: được phần làm riêng.

(41) Thông thơ Vạn bảo: Thông thơ: tên cuốn sách do Chu Đôn Di soạn, trước gọi là Dịch thông, sau đổi là Thông thơ, bàn về dịch lý; Vạn bảo: tên một cuốn sách về phép thuật của Đạo giáo, không rõ tác giả.

(42) Hội lề: hội mở thường lệ.

(43) Công dương: nghênh ngang.

(44) Chú ý chữ vần không ghi bằng chữ vận () là xoay vần mà lại dùng chữ vận () là âm vận, nên có khả năng đây là một biến âm của từ “vầy” (quấy, vọc, vấy bẩn).

(45) Ngũ vị tân: năm loại gia vị, thường được kể là hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ.

LMT phiên tao. Nhưng xét nguyên bản Nôm viết chữ thoạt nhìn giống chữ Hán tù nhưng nhìn kỹ thì thiếu 1 nét ngang ở dưới chứ không phải chữ tù , có thể đây là một chữ Nôm, gồm thảo đầu trên chữ tứ , vậy thì nên phiên là “tớ”, vì chữ “tớ” Nôm thường ghi bằng chữ tứ hay . GS LMT còn đề xuất một cách đọc khác là “choa” nhưng cách đọc này có vẻ là giọng Trung-Nam không sát giọng Bắc.

(46) Chữ trong ngoặc vuông vốn bị mất trên mộc bản của tờ 8, điền vào theo bản AB 374 ở Viện NC HN.

(47) Như chú thích trên.

(48) Nay đem bán cho Phật Thích-ca.

(49) Như trong tờ giao kèo không sai.

(50) Câu 237-40 nói đến những tên đất tưởng tượng. Lan đài: tên một huyện xưa. Bộ châu, gọi đủ là Nam Thiệm-bộ châu, tức cõi Diêm-phù (Jambudvīpa) này. Na-ni-cù là Aparagodānīya thường dịch là Tây Ngưu Hóa châu, còn châu Việt là gọi tắt của chữ Đan- việt (Uttarakuru), thường dịch là Bắc Câu-lô châu.

(51) Khê-lê: rất nhiều.

(52) Ỷ khôn: không biết làm sao, khó được.

(53) Nêu: cây nêu, đây chỉ tích cây nêu theo truyện cổ Việt Nam.

(54) Ngả: tức hạ cây nêu xuống.

(55) Ấn Bát-nhã: là ấn trí tuệ, tạo ra bằng cách hai bàn tay ghép lại, hai ngón trỏ chỉ lên.

(56) Nguyên bản Nôm là chữ trợ , LMT phiên theo nghĩa là giúp cũng thông, nhưng thực ra chữ trợ thường đọc Nôm là chữa, nghĩa rộng cũng là cứu giúp chứ không phải chỉ là “chữa bệnh” như ngày nay thường hiểu.

(57) LMT: khôn, có lẽ do người đánh máy sót dấu.

(58) Lù và tức cái tù và, từ này có trong Từ điển Việt Bồ La của A.D.Rhodes (1651), NXB Sông Hương, trang 243: “Chiếc tù và các nhà sư dùng để đi xin của bố thí”: Lù viết bằng chữ lộ , LMT đọc ra “lọ và”, giải thích là cái lọ và cái tù và. 

(59) LMT phiên ra “băng”.

(60) LMT phiên “sâu”, không đúng vì đây đang nói về loài trâu, có công nên sau được hóa thân làm vua Thần Nông, vị vua này theo truyền thuyết có mình người đầu trâu.

(61) Có thân người đầu trâu vì có công giúp người.

(62) Bất tiếu: không xứng đáng. Vì vua Nghiêu sinh con không tốt, nên truyền ngôi cho Thuấn.

(63) Chuyện 10 mặt trời, Hậu Nghệ bắn 9 chỉ còn 1 trong thiên Bản kinh huấn của Hoài nam tử.

(64) LMT: cày.

(65) LMT: nắng tắt. Nguyên bản nôm viết bộ hỏa bên chữ phát (+) chúng tôi cho là một cách ghi của từ cổ m-lạt hay p-lat (lạt, hạt).

(66) Bấy giờ nước ngập đầy trời. Đây là tích hồng thủy ghi trong Hoài nam tử.

(67) Lịch sơn: núi Lịch, nơi vua Thuấn cày ruộng.

(68) Của mới thường tân: của mới đầu mùa.

(69) Vua trị nước, thầy dạy dỗ, cha mẹ sinh thành.

(70) Luân hồi lui tới mới được thân người.

(71) LMT “chẳng”, chúng tôi phiên “chăng” vì câu có sắc thái giả thiết.

(72) Theo truyền thuyết nói, 1 ngày 1 đêm ở trên trời bằng 800 năm ở dương gian.

(73) Ba mươi ba trời: tên một cõi trời ở tại đỉnh núi Tu-di. Theo Vũ trụ quan Phật giáo thì đấy là nơi đức Phật thường thuyết pháp. Cũng có tên là cõi trời Đao-lợi.

(74) Kinh nói, người và Phật có cùng một bản tánh như nhau.

(75) LMT: thiện, có lẽ đánh máy nhầm dấu.

(76) Trời sinh anh hùng, người đó lại trở thành trời.

(77) Nếu ai biết được điều ấy, tức người trở thành trời, là đã đạt được phép thiền tối thượng thừa của Đại tiên.

(78) Chớ còn đi lầm đường và ăn nói dong dài, mách nghĩa như trong từ “ngồi lê đôi mách”.

(79) Những kẻ oán thù với nhau tìm cách trả oán liền trong giây phút.

(80) Cha là trời, đất là mẹ sinh ra con người.

(81) Kim loại và cây để làm tượng Phật, vốn xưa cũng do đất tạo ra.

(82) Phi trần: mang bụi nhơ bẩn.

(83) LMT : dõi.

(84) Nêu tả ra đây chuyện xưa về sự hóa sinh.

(85) Như sách này đã khéo dùng những tài liệu từ kinh điển và sử liệu viết ra.

(86) Động tĩnh che sâu mối thuở xưa

Máy thiêng chuyển dựng cõi mông mờ

Cao dày ấy thực chân không sắc

Trời đất người từ một thái hư.